Khi
Cơn Lốc Tới
Thôn Vũ
An thuộc xã Bình Thọ, một vùng
đất nhỏ hẹp với khoảng
ba chục gia đình người Kinh, từ
miền xuôi lên khai khẩn trồng rẫy,
trong địa đầu tỉnh Yên Báy,
mé tây nam giáp ranh Sơn La. Hàng
năm, cứ vào độ cuối đông,
thôn dân thường lên khu nghĩa
trang để làm cỏ, dọn dẹp, chuẩn
bị cho lễ Tảo Mộ thường
tổ chức vào ngày mồng bốn
Tết.
Ngày 24 tháng
chạp năm Canh Ngọ (1930), khoảng nửa
năm sau khi 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc
Dân Ðảng đền nợ Nước,
cụ Ðồ Vũ cùng con cháu lên
nghĩa trang như mọi năm để sửa
sang phần mộ cụ Bà. Do một chứng
bệnh nan y, cụ Bà 62 tuổi đã
thất lộc ba năm trước. Ðối
với cụ Ðồ, bà Vũ vừa
là người bạn đời,
vừa là người đồng
chí trong những hoạt động chống
Pháp. Gần tới nghĩa trang, Cụ
rất ngạc nhiên khi thấy rẻo đất
phía Nam xưa nay vẫn bỏ hoang, mọc lên
một thảo am mà ba mặt chung quanh đã
trồng những hàng chuối xanh tươi
cùng nhiều luống rau diếp, xu hào,
cải bắp...
Công việc
sửa sang phần mộ cụ Bà xong xuôi,
cụ Ðồ cho con cháu về nhà
trước, rồi men theo một lối mòn
đến gần thảo am. Ðó là
một ngôi nhà nhỏ một gian hai chái
lợp bổi, tường vách đất.
Trên sân cỏ, một lão nhân mặc
quần áo nâu đang phơi khoai lang khô.
Nhác thấy cụ Ðồ đang bước
tới, lão ông ngước nhìn,
vui vẻ:
- Xin chào cụ!
Cụ Ðồ
tươi cười:
- Không dám,
chào ông! Gần năm nay tôi mới
lên khu nghĩa trang này nên chưa được
biết ông...
Lão ông
đứng lên, chắp tay trước
ngực:
- Thưa cụ, chúng
tôi họ Ðiền, từ miền xuôi
lên mới nhập tịch, lại phải
tự túc nơi ở nên thật
có lỗi vì chưa đi chào thăm
quý cụ...
Cụ Ðồ
niềm nở ngắt lời:
- Ðiền tiên
sinh không cần khách sáọ Sẽ
còn nhiều dịp để tiên sinh
cùng các Bô Lão thôn này
tương kiến. Tôi họ Nguyễn, người
quen thường gọi là cụ Ðồ
Nguyễn. Thực là tam sinh hữu hạnh
được gặp tiên sinh hôm naỵ
Ðiền lão
vái thêm một lần rồi vui vẻ:
- Cảm ơn Cụ
hạ cố. Nhưng xin đừng dùng
hai tiếng tiên sinh.
- Vâng, ông
Ðiền! Chẳng hay quý quyến...
- Thưa, chúng
tôi chỉ ở một mình từ
nhiều năm naỵ Kính mời Cụ
vô trong dùng trà.
Cụ Ðồ
lắc đầu:
- Cảm ơn ông
Ðiền, chúng tôi phải về kẻo
bọn trẻ mong.
Chẳng là
bữa nay có đám giỗ tiện
nộị Xin ông Ðiền cho phép.
Ðiền lão
lại chắp tay:
- Vậy tôi
không dám giữ. Xin cho tôi tâm
hướng góp phần tưởng
niệm cụ Bà.
Cụ Ðồ
cũng chắp tay đáp lễ:
- Ða tạ ông
Ðiền, mong có dịp tái kiến!
- Tôi cũng
mong như vậỵ Cụ lại nhà!
- Chào ông
Ðiền.
Ðó là
lần đầu tiên và cũng là
lần sau chót cụ Ðồ gặp Ðiền
lãọ Vì mùa Thu năm ấy, một
cơn lốc xoáy lướt ngang rẻo
phía nam của nghĩa trang thôn Vũ An,
đã cuốn theo ngôi nhà tranh của
Ðiền Lão, hầu như không còn
để lại vết tích gì, ngoài
một ống tre già vẫn còn đậy
kín bị gió cuốn văng ra mé
sông Ngòi Hút, gần Liên Tỉnh
Lộ 13.
Sở dĩ
thôn dân biết ông tre này là
của Ðiền lão, vì người
nhặt được đem về trao cho
cụ Ðồ Nguyễn, nhờ cụ đọc
những trang chữ Nôm cuộn tròn
để bên trong. Ngay buổi tối hôm
đó, sau nhiều toán dò tìm
tông tích Ðiền lão cả năm
ngày mà chưa có tăm hơi, cụ
Ðồ mở cuộn giấy bản, đọc
bút tự của Ðiền lão, người
mà tuy chưa ở lâu tại địa
phương này, nhưng đã khiến
bà con cảm mến vì đức
độ, vì lòng thương người
luôn cứu giúp kẻ lỡ đường
hay gặp khó khăn trong quan hôn tang tế.
Của cho không
bằng cách cho, - cổ nhân thường
nói -, của Ðiền lão qua cung cách
biểu lộ từ tâm, ân cần,
đã khiến thôn dân trân trọng.
Thiên tai vừa xảy ra, lại chỉ giáng
họa trên Ðiền lão làm cho nhiều
người vội cho là Trời không
có mắt. Người ta đắp
một ngôi mộ tượng trưng ngay trên
nền thảo am của Ðiền lão,
trên bia đá có khắc dòng
chữ: Ðiền Thị Lão Ông
Chi Mộ để tỏ lòng kính nhớ.
Dưới
ánh sáng của ngọn đèn Hoa Kỳ
, cụ Ðồ Nguyễn chăm chú đọc
những hàng chữ nôm, di bút
của Ðiền lão:
Tôi viết
những dòng chữ này trong lúc
còn khỏe mạnh sáng suốt, như
một cách bày tỏ sự thống
hối về tội ác mà tôi đã
gây ra nhiều năm trước. Những
việc thiện mà tôi thực hiện
trong nhiều năm gần đây ở
những nơi khác và tại địa
phương này, không đủ chuộc
tội cho tôi trong muôn một! Từ nhiều
năm nay, tôi linh cảm sắp đến
ngày hình phạt sẽ tớị
Nhưng tôi không thể biết trước
Việc Trời: tôi sẽ bị sét
đánh, bị người ta sát
hại, bị đắm thuyền, hỏa tai,
ngộ độc...hay một tai họa nào khác.
Dù dưới hình thức nào
của Luật Trời giáng họa để
xử phạt tội lỗi do mình gây
ra, tôi cũng cúi đầu nhận lãnh.
Tôi còn được sống đến
ngày hôm nay - tháng trọng hạ, năm
Tân Mùi (*) - cũng đã là
may mắn lắm. Sau khi tôi đền tội,
dám mong đồng bào đừng
tang chay, lập mộ, cầu siêụ.. tôi
không đáng nhận lòng thương
của đồng bào. Hãy chôn cất
sơ sài, hợp vệ sinh cho kẻ tội
lỗi này, được như vậy
tôi thành kính tri ân liệt quý
vị.
Tôi đã
gây nhiều trọng tội, nay trước
khi đền trả, tôi xin giãi bày
cùng đồng bào, trước
là để giải oan cho hai kẻ bất
hạnh đã nằm xuống dưới
bàn tay vấy máu của tôi, sau là
để vạch trần bộ mặt thực
của một tên sát nhân đáng
nguyền rủa là tôi.
Năm Ất Mão
(**), tôi gia nhập một đảng cướp
dọc theo miền duyên hải phủ Nghĩa
Hưng thuộc tỉnh Nam Ðịnh. Chúng
tôi uống máu ăn thề không
bao giờ phản bội tổ chức.
Ðảng cướp của chúng tôi
chuyên xử dụng những cây phóng
có hình dáng chiếc bút chì,
giống như chiếc mai thường dùng
để đào đất, nhưng lưỡi
lớn cuộn tròn và cán dài
hơn, làm bằng một thứ tre già
đã ngả màu vàng ánh. Một
đầu là lưỡi "bút" được
"tô" bằng thép đủ tuổi, sắc
bén vô cùng; một đầu được
đục lỗ để buộc sợ
dây dài tùy theo sức phóng
đi, bắt lại của người sử
dụng.
Sau vài năm
đánh cướp nhiều nơi, năm
ấy, chúng tôi 6 người, "ăn
hàng" tại nhà một tên điền
chủ gian ác ven sông Ðáy nhân
đêm tân hôn đứa con trai
của y. Vì là một địa chỉ
quen, nên chúng tôi cẩn thận bịt
mặt trước khi bật hồng (***). Thường
lệ, trong một chuyến ăn hàng, cần
thu chiến lợi phẩm, chủ yếu là
vàng bạc rối tắt đuốc rút
nhanh về nhiều phía khác nhau. Một
tay cầm cây đuốc cháy rực,
một tay cầm Bút Chì , tôi đạp
cửa căn phòng có hai chữ
Tân Hôn bằng giấy đỏ. Không
thấy chú Rể. Tôi cho rằng tên
này đã chạy thoát, không kịp
kéo theo cô vợ mới. Cô
dâu mặc áo cưới, run rẩy
nép mình bên góc giường.
Thốt nhiên
tôi quên bẳng việc lột nữ
trang mà đăm đăm nhìn cái
nhan sắc mơn mởn đào tơ
của cô gái. Tà tâm nổi dậy,
tôi dập tắt ngọn đuốc rồi
dùng sức đè bẹp sự
chống cự yếu ớt của cô
ta để thỏa mãn thú tính...
Bất ngờ chiếc khăn bịt mặt
của tôi bị kéo lệch qua một bên.
Tiếng cô gái rú lên:
- Trời ơi!
Ông Phó Tách!
Phản ứng
tức khắc của tôi là cầm
mép chiếc khăn đen che mặt lại.
Thừa lúc tôi vô ý, cô
gái còn lõa thể vụt chạy ra
ngoàị Tôi thoáng thấy một người
kéo tay cô ta đi. Tôi vội cầm
bút chì đuổi theọ Ðã
lộ diện, tôi giết người,
diệt khẩu. Hai ngọn bút liên tiếp
được tôi phóng ra, thâu lại.
Trước khi tháo chạy, tôi còn
thấy hai bóng người gục ngã
trên sân phơi lúa, gần một gốc
cây cau và chiếc chum hứng nước
mưa! Sau vụ này, tôi bị loại ra
khỏi tổ chức, vì không có
... chiến lợi phẩm trong đêm cướp
đó.
Nhiều ngày
liên tiếp, tôi thường nằm
mơ thấy hai thây người bị
ngọn bút đâm từ sau lưng
ra trước ngực, máu tuôn xối
xả. Nhất là khuôn mặt khiếp
đảm của cô gái. Có buổi
chiều nhìn ra khoảng trời nước
mênh mông, tôi thấy sợ hãi
một sự báo oán nào đó
từ hai kẻ bị chết oan giữa
tuổi thanh xuân. Dần dần, tôi thấy
hình như sự đền tội sắp
bắt đầu. Sống căng thẳng
như vậy hơn hai năm, tôi không cón
chịu nổi khung cảnh quen thuộc mỗi khi
đi qua nơi bị cướp, tôi từ
giã vợ con, nói là đi lên
Hà Nội tìm việc làm, viện lẽ
nghề thợ mộc không khá được!
Những số của dành dụm được
sau hai năm trong Ðảng Cướp Bút
Chì, tôi để lại phân nửa
cho vợ con, phân nửa tôi đem
theo. Tôi đã sống nhiều năm
ở mạn Núi Voi, Hòa Bình và
Nghĩa Lộ, Sơn La, trước khi tới
ngụ cư nơi đâỵ Tôi tự
tu trong những năm xa nhà, ráng cứu
giúp những người cùng khổ
hòng tạ tội trong muôn một với
Trời.
Tại đây,
như đồng bào đã biết,
tôi làm ngôi nhà tranh, bề ngoài
sống bằng hoa lợi mấy thửa
vườn, mục đích làm việc
thiện để hồi hướng công
đức cho hai người bị tôi
sát hại. Từ hơn nửa năm
nay, tôi linh cảm sắp tới ngày
mình phải đền tội. Luật trời
chí công, tôi tin như vâỵ Chỉ
không biết tôi sẽ phải đền
trả bằng cách nào: bị sát
hại, sét đánh, ngộ độc,
đắm thuyền, Tây bắt đem chém
vì nghi ngờ chống Pháp (nếu
vậy cũng vinh dự cho tôi là kẻ
không xứng đáng). Nhưng dù
bằng cách nào, tôi cũng cam lòng
nhận lãnh. Chỉ mong được toàn
thân mà chết và vợ con tôi
không bao giờ biết đã có
người chồng, người cha đáng
nguyền rủa nàỵ
Sau cùng là
nguyện vọng của tôi, xin chính quyền
địa phương vui lòng giúp cho:
Tôi có hai mẫu vườn có
giấy tờ trước bạ, ít
hiện kim và ngôi nhà tranh, xin được
cúng vào việc từ thiện.
Tôi xin ký
tên sau đây là: Ðoàn Văn
Tách.
Hoàng Ngọc
Liên
Ghi chú:
* Năm 1931.
** Năm 1915.
*** Ðốt
đuốc cho sáng.
|