Trang nhà
HOÀNG NGỌC LIÊN



hoangngoclien@juno.com

Truyện Hoàng Ngọc Liên

Tiếng Chim Giải Hận

  Thường sinh bước xuống chuyến đò ngang trên dòng Vân Hồ, khúc sông nối tiếp hai bờ một con đường dài thăm thẳm. Là một người vốn ưa cuộc sống tự do, không phải ràng buộc,  sinh không dẫn theo tiểu đồng tháp tùng vào kinh đô ứng thí,  như phần đông các bạn đồng môn khác. Giang sơn của sinh vỏn vẹn là một tay nải chứa chiếc lều vải, vài bộ quần áo, ít vật dụng cần thiết và hai cuốn sách. Ðịu chiếc tay nải trên một bờ vai, sinh là khách bộ hành đường dài, trong dòng người lũ lượt tiến Kinh.

  Ðò cập bến, trước mắt sinh là một quán lá bày biện sơ sài. Vuông vải trắng,  mang chữ “trà” được treo đong đưa trên chiếc mấu của một cây phướn, đã ngả màu cháo lòng. Quán trống, chung quanh không có phên che, là khung cảnh quen thuộc thường hiện ra sau mỗi chặng đường, nơi khách bộ hành nghỉ chân để giải khát.

  Sinh ngồi vào chiếc bàn chưa có khách còn sót lại, kêu một bình trà. Một làn gió mát thoảng qua khiến sinh cảm thấy dễ chịu. Nhìn ra phía ngoài, sinh chợt thấy một cụ già đang chậm chạp đi tới. Một tay đưa lên vai cầm lấy đầu tay nải địu trên lưng, một tay chống gậy, cụ già có dáng điệu mệt nhọc lần bước đến chỗ sinh ngồi. Ý hẳn nhận thấy chỉ còn 1 bàn này là có chỗ trống, ông cụ đặt chiếc tay nải màu vàng xuống góc bàn, để cây gậy dựa vào thành ghế rồi ngồi xuống.

  Sinh đứng lên thi lễ:

  -  Kính chào lão trượng.

   Ông cụ nhìn sinh, sẽ gật đầu.

  Sinh rót trà ra ly, hai tay cung kính:

  - Trà còn nóng, tiểu sinh kính mời lão trượng.

  Ông cụ lại gật đầu, đỡ chén trà,  thủy chung cụ vẫn chưa lên tiếng.

  Hình như cảm thấy ông cụ không muốn tiếp chuyện mình, sinh không nói gì thêm. Nhìn qua con đường trước mặt, sinh lim dim cặp mắt và cảm thấy cái nắng gắt của trưa hè có phần dịu lại. Mải mê những ý nghĩ mông lung tản mạn, lúc sinh mở mắt ra thì không thấy ông cụ đâu nữa. Dĩ nhiên ông cụ đã lên đường. Cây gậy của ông cụ dựng bên thành ghế biến theo,  nhưng sinh vừa nhận ra chiếc tay nải màu vàng vẫn còn ở chỗ cũ. Biết ngay là ông cụ để quên, sinh vội vàng kêu chủ quán nhận tiền trà, rồi một tay quàng chiếc tay nải của mình, một tay quàng chiếc của ông cụ lên vai, sinh vội vã bước ra khỏi quán. Khi đến con đường thẳng góc trước mặt, sinh không biết ông cụ đi về phía nào. Ngần ngừ một lát, sinh cho là lúc nãy, có thể là ông cụ từ con đường phía trên đi xuống. Bởi vì chuyến đò sinh vừa qua, không có ông cụ. Thời gian sinh ngồi trong quán không đủ để chuyến kế tiếp cập bến. Như vậy muốn tìm được ông cụ, sinh phải đi trở lại con đường vừa đi qua. Nên sinh men xuống  bờ sông, cũng may mà sinh không phải chờ lâu, con đò ngang lại sắp cập bến.

   Qua bờ bên kia, sinh cứ theo đường cũ rảo bước. Tới quán lá  đã từng nghỉ chân thì bóng  chiều đã ngả, sinh hy vọng gặp lại  ông cụ. Quả nhiên, vừa bước vào quán, sinh đã thấy cụ đang ngồi trầm ngâm trước một chung trà. Sinh mừng rỡ đặt chiếc tay nải màu vàng trên bàn:

  - Lão trượng, xin lão trượng nhận lại chiếc tay nải để quên bên kia sông.

  Ông cụ ngước nhìn sinh, gật gù:

  - Phải rồi, lão thật lơ đãng quá, cảm ơn huynh đài.

  Sinh kéo ghế ngồi đối diện với ông cụ. Bây giờ sinh mới nhận ra khuôn mặt hồng hào, phúc hậu của ông cụ, với cặp mắt sáng quắc và chòm râu dài trắng như tuyết. Ông cụ mở tay nải, lấy ra một đĩnh bạc trao cho sinh:

  - Lão biếu huynh đài chút lộ phí lai kinh. Nhìn dáng dấp huynh đài, lão đoán chừng huynh đài sắp đại đăng khoa.

  Sinh  chắp tay trước ngực:

  - Ða tạ lão trượng có lòng, thiệt tình tiểu sinh không dám thọ ân vì  đã có đủ lộ phí khứ hồi. Xin lão trượng vui lòng giữ lại cho. Tiểu sinh thật tình, mong lão trượng lượng thứ.

  Cụ già cười ha hả và không câu nệ bỏ đĩnh bạc vào tay nải màu vàng. Lão chăm chú nhìn sinh:

  - Huynh đài thi ân bất cầu báo, lại có thái độ tôn trọng người nhiều tuổi, lão hủ này rất hoan nghênh.

  Nói đến đây, chợt lão kêu lên:

  - Ðáng tiếc, thật uổng quá!

  Sinh cung kính:

  - Có điều gì, xin lão trượng vui lòng chỉ giáo cho.

  Ông già ân cần:

  - Chúng ta bèo nước gặp nhau, thật là ba sinh hữu hạnh. Ðể tạ lại tấm lòng của huynh đài, lão mạo muội có vài lời, mong được huynh đài quan tâm.

  Sinh cúi đầu:

  - Tiểu sinh cung kính nghe lời dạy của lão trượng.

  - Lão nhận thấy gương mặt huynh đài có bao bọc một màn ám khí. Lão e tiền đồ của huynh đài sẽ gặp sự bất trắc, có nguy cơ quan hệ đến tính mạng.  Vậy lão có 2 điều khuyên, huynh đài nên  ghi nhớ. Một là cần hết sức thận trọng trong việc giao dịch với người khác phái. Hai là  khi không còn cách nào khác, mới nên chọn thủy trình.

  Sinh lại chắp 2 tay trước ngực:

  - Ða ta lão trượng chỉ dạy, tiểu sinh sẽ hết sức ghi nhớ.

  Nói xong, sinh đứng lên:

  - Tiểu sinh phải lên đường, xin tạm biệt lão trượng, mong sẽ có ngày tái ngộ.

  Cụ già giơ tay:

  - Lão cảm ơn huynh đài đem trả lại chiếc tay nải. Chúc huynh đài thượng lộ bình an!

        * * *

  Ngày kia, sinh đặt chân đến Liên Ðình thuộc khu vực Lãng Hồ. Ðó là một chiếc hồ khá rộng mà chiều dài lại ngoài tầm mắt, chung quanh hồ trồng toàn liễu. Mấy ngọn Ngọc, Vân, Phong Sơn bao bọc ba mặt  hồ, phía còn lại chính là con đường mà sinh vừa trải qua, dẫn đến bờ phía tây của hồ. Liên Ðình được cất trên địa thế cao. Ðứng trong đình, du khách có thể nhìn bao quát cả mặt hồ rộng mênh mông, có khá nhiều con thuyền lớn nhỏ với những chiếc buồm nhiều màu sắc căng gió. Thốt nhiên sinh nghe một giọng nói ồm ồm cất lên:

  - Quý khách tạm dừng chân tại Liên Ðình, kẻ hèn này xin có đôi lời giới thiệu vài nét về cảnh vật chung quanh, gọi là lời chào mừng của dân chúng sở tại.

  Một đại hán có chòm râu ngắn và một gương mặt hồng hào, từ bao giờ đã đứng giữa đình. Y chỉ tay ra phía hồ:

   - Kính mời quý  liệt vị phóng tầm mắt qua phía bên tả, ngọn Ngọc Sơn có ngôi chùa Liên Hoa Bửu Tự do Ni Sư Thích Hằng Ðộ trụ trì.  Dưới đó, ngang tầm mắt  của chúng ta là 5 cửa Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ môn,  mà cửa nào cũng có đường dẫn lên Bửu Tự, với rất nhiều động có thạch nhũ nổi tiếng. Ngọn Vân Sơn chính giữa, ngất cao tới đỉnh trời. Nếu quý vị có nhã hứng tham quan, người của Ngọc Hoa Trang hân hạnh được làm kẻ dẫn đường tận tụy. Bên tay mặt kẻ hèn này là ngọn Phong Sơn. Trên núi, bốn mùa đều có gió lành, nên còn kêu bằng Lương Sơn. Mùa đông, gió trên Phong Sơn ấm áp, mùa hạ gió lại mát lạnh. Ðiều này thoáng nghe có vẻ nghịch lý, nhưng đây là sự thật, kẻ hèn này không dám lạm bàn. Kế đó là Ngọc  Hoa Trang. Ðây là trang viện của đương kim tổng đốc, Ngọc đại nhân. Bây giờ đến Lãng Hồ. Quý vị có nhận ra chiếc Hoa  Thuyền có 2 cánh  buồm lớn màu sen đang thả neo giữa hồ không? Ðây mới là trọng tâm của đôi lời mà kẻ hèn này có bổn phận trình bày trước liệt quý vị hôm nay.

  Hiện tại Ngọc đại nhân đang kén giai tế, làm khách đông sàng cho ái nữ là Ngọc Tiểu Thơ. Trái với những hình thức thông thường, Ngọc Tiểu Thơ ngày đêm trên Hoa Thuyền, được tự do xếp đặt những thể thức kén chồng mà tiểu thơ cho là vừa ý. Gần đây khá nhiều anh hùng hào kiệt lăm le cầm lấy  bàn tay giai nhân để được yết kiến Ngọc Ðại Nhân. Theo đại ý lời công bố trên tấm bảng dựng trên Hoa Thuyền thì Ngọc đại nhân hoàn toàn chấp nhận, bất kể chàng trai nào được cầm tay Ngọc tiểu thơ đến ra mắt ông, không cần môn đăng hộ đối. Ðiều kiện phóng khoáng này khiến những chàng trai hào hoa bốn phương kéo nhau thăm Lãng Hồ ngày càng đông. Trong số liệt quý vị có mặt hôm nay, hẳn có vị hữu ý, kẻ hèn này xin được hoan nghênh. Ðến đây,  cũng xin trình bày thể thức hiện đang áp dụng cho mối duyên giai ngẫu này.

  Ngưng lại một lát, cặp mắt rảo qua những khuôn mặt anh tuấn đang lắng nghe mình nói, đại hán cao giọng tiếp lời:
  - Thật là giản dị:  vị nào đối được một  vế ra của Ngọc tiểu thơ, mà tiểu thơ chấp nhận, vị đó sẽ được cầm tay nàng đến yết kiến Ngọc đại nhân để tiến hành hôn lễ!

  Lại ngưng một lát, đại hán hạ giọng:

  - Nhưng rất tiếc là cho đến nay, sau  gần 2 tháng sinh hoạt trên Lãng Hồ. Người ta toàn chứng kiến những gương mặt bẽ bàng rời khỏi  Hoa Thuyền. Mới đây, Ngọc tiểu thư có ngỏ ý là, sau tiết thu phân sang năm, nghĩa là còn  khoảmh mười bốn tháng  nữa, nếu không kén được  người bạn đời, nàng sẽ lên Liên Hoa Bửu Tự, thế phát quy y, coi như không có duyên với người trần tục. Kẻ hèn này ngày đêm cầu nguyện đức Thế Tôn gia hộ cho Ngọc tiểu thơ sớm gặp mối duyên lành, dám mong trong quý liệt vị đây sẽ có người được cầm tay Ngọc tiểu thơ, khiến cho có một ngày Ngọc Gia Trang mở hội Hoa Ðăng và mỹ nhân sẽ không còn dịp làm ni cô trên Liên Hoa Bửu Tự.

  Nghe đến đây, tự nhiên sinh thấy hứng khởi và trong một phút bồng bột, sinh không còn nhớ những lời khuyên dặn của ông cụ trong quán lá ven đường. Ngay buổi xế chiều hôm đó, vầng trăng tròn vừa nhô lên đỉnh Vân Sơn, mặt hồ đã lao xao gợn sóng, sau những làn gió mát làm đong đưa bao nhiêu bóng liễu quanh Lãng Hồ, Thường sinh đã có mặt trên một con thuyền con, cánh buồm nhỏ nhằm hướng Hoa Thuyền lướt tới. Ðiều khiển con thuyền là một vị trung niên dáng người nho nhã, tự giới thiệu khi sinh ngỏ lời muốn thuê con thuyền nhỏ đưa tới Hoa Thuyền:

  - Tôi họ Cấn. Vì làm nghề đưa khách du ngoạn trên lãng hồ, lại có năm ba con thuyền nhỏ, nên mọi người thường gọi đùa là thuyền trưởng. Bữa nay hân hạnh được chở tiên sinh áp mạn Hoa Thuyền, xin kính chúc tiên sinh mã đáo thành công!

  Sinh trao cho thuyền trưởng số bạc trả cho cả  chuyến đi, từ bờ tây Lãng Hồ ra Hoa Thuyền, cả chuyến trở lại. Nhưng nói vậy chớ trong thâm tâm, sinh nghĩ mình sẽ trót lọt qua cửa... vũ môn, ắt không phiền lòng thuyền trưởng nữa.
  Khi chiếc thuyền con vừa áp mạn Hoa Thuyền, sinh đã nghe âm thanh của một cô gái  dịu dàng vang lên:

  - Xin hỏi vị tiên sinh vừa tới, phải chăng muốn cùng Ngọc tiểu thơ hội kiến?

  Sinh vội đáp:

  - Tiểu sinh họ Thường, người phủ Diên An, nhân trên đường lai kinh qua đây, rất ngưỡng vọng Ngọc cô nương nên mạo muội đến xin ra mắt.

  Thiếu nữ trên thuyền dõng dạc:

  - Nhờ Hồng, Hoa, nhị vị tỷ muội chuyển trình Ngọc tiểu thơ: Có Thường tiên sinh xin được diện kiến.

  Chỉ một lát sau, thiếu nữ trên thuyền tiếp lời:

  - Ngọc tiểu thơ rất hoan nghênh Thường tiên sinh hạ cố, xin mời lên Hoa Thuyền.

  Sinh vừa nhẹ bước qua, đã nghe lời giới thiệu:

  - Ngọc cô nương cùng 2 thể nữ chào mừng quý khách.

  Cùng lúc đó, bức rèm châu khoang chính từ từ cuốn lên. Có tiếng đàn dạo bản “Tương Phùng Khúc”. Ánh sáng của mấy chục ngọn Hoa Ðăng chiếu trên thân hình kiều diễm của người đẹp đứng giữa, hẳn nhiên là Ngọc cô nương, hai bên là hai cô gái xinh đẹp, hầu cận.

  Sinh vòng tay ra phía trước:

  - Tiểu sinh là Thường Nhơn Hoà, rất hân hạnh được Ngọc Cô Nương cho tương kiến.

   Ngọc tiểu thơ hơi nghiêng mình thi lễ rồi cất giọng oanh vàng:

  - Tạ tạ Thường tiên sinh quang lâm Hoa Thuyền! Xin mời vào trong đàm đạo.

  Người đẹp bước qua một bên. Hai cô gái lui ra phía sau, chờ cho sinh và Ngọc tiểu thơ song hàng bước vào khoang chính của Hoa Thuyền đã trang trí cực kỳ lộng lẫy.

  Sau khi phân ngôi chủ khách, một thể nữ dâng trà. Ngọc tiểu thư đặt ly trà trên bàn, trước mặt sinh:

  - Mới Thường tiên sinh dùng trà. Tiên sinh có lòng hạ cố, tiểu nữ thành thực đa tạ. Tiểu nữ tài hèn, trí thiển, vâng lệnh nghiêm đường dùng Hoa Thuyến làm nơi tương ngộ, những mong sẽ gặp lương duyên. Từ ngày dùng một vế đối ướm lòng người quân tử, đã khá nhiều khách hào hoa đáp ứng. Văn tài thực là đông đảo, nhưng chưa có vế đối nào làm tiểu nữ siêu lòng.

  Sinh mỉm cười:

  - Như vậy, phải chăng ý của cô nương là, ngoài sự cân đối của từ, của ý, còn phải khiến cô nương xúc động trong lòng. Tiểu sinh bây giờ mới hiểu trong điều kiện được cầm bàn tay ngọc, có đoạn đại ý là vế đối được tiểu thơ chấp nhận... lại còn ngụ ý phần lớn về chiều hướng tình cảm. Thành ra bao nhiêu kẻ thất bại trước đây không hẳn là vế đối của họ không hay, không chỉnh... Vì không biết trước điểm quan trọng này, tiểu sinh mới dám đường đột bước lên Hoa Thuyền...

  Ngọc tiểu thư cúi đầu e lệ:

  - Tiên sinh quả biết được cái lẽ đối diện sinh tình. Tiểu nữ vẫn tâm đắc câu : “tình duyên do thiên định”, ắt khiến cho con người cảm nhận được tâm ý của nhau. Nói như vậy không hẳn là vế đối không chiếm phần quan trọng trong nhận thức của tiểu nữ, mà còn là một sự bắt đầu cần thiết, vậy xin kính mời tiên sinh hạ bút.

  Tiểu thơ dứt lời thì 2 thiếu nữ cũng vừa xuất hiện, đã đặt  nghiên bút cùng hai tờ hoa tiên, có 1 tờ đã ghi sẵn vế ra, riêng cho cuộc hội kiến tối nay.

  Sinh đọc  nhanh dòng chữ:

  - Bản thủy vô ba, tự phong  siếu diện.

  Ý nghĩa của vế ra cũng chẳng có gì thâm thúy: bản chất của nước không có sóng, chỉ tại gió thổi làm cau mặt mà thôi!

  Nghĩ vậy nhưng nhất thời sinh chưa tìm ra một ý nghĩa tương phản. Ðầu óc sinh như mụ đi. Thốt nhiên, sinh nhận ra là mình đang theo đuổi một công việc trái với nề nếp, tác phong khoáng đạt, không vương phiền lụy của mình. Cứ tưởng tượng đến lúc cầm tay Ngọc cô nương vào yết kiến Tổng Ðốc đại nhân, bao nhiêu lễ nghi phiền phức, ràng buộc sinh vào cửa quyền môn, sinh thấy tự mình gây ra phiền não. Nhưng đã đến nước này, dù muốn thoái thác cũng không còn kịp nữa. Như vậy chỉ còn một cách là đáp ứng lời mời của Ngọc tiểu thơ một vế đối bình thường, sau đó cố tình lảng tránh tia mắt của nàng. Ngọc tiểu thơ là người tinh tế, ắt nhận ra ẩn ý của người đối diện mà không chấp nhận cuộc tình duyên. Sinh sẽ thanh thản theo con đường đã định.

  Có sẵn định kiến, sinh nhẩm đọc lại vế ra. Hình ảnh nào giúp sinh có được vế đối hoàn chỉnh, chỉ cần không làm mất thể diện thì dù không xuất sắc cũng không sao. Nhưng thêm một tuần trà nữa qua mà sinh vẫn chưa tìm được ý. Người sinh nóng bừng lên. Ngoài trời từng cơn gió lộng thổi. Ánh trăng, ánh đèn chiếu xuống mặt hồ sóng dậy, tiếng ào ào vỗ mạn thuyền từng đợt ngày càng dồn dập. Sinh thấy đầu mình căng ra, thị lực yếu dần. Một ma lực nào dựng sinh đứng lên, quên là mình đang ở đâu, không nhớ còn có Ngọc tiểu thơ đối diện, sinh lảo đảo bước ra mạn thuyền, phía bên tả, nơi không có con thuyền nhỏ mà sinh thuê áp mạn. Ngọc tiểu thơ và mấy thể nữ hoảng hốt bước theo. Nhưng một bóng người dường như vừa trượt chân, đã lao xuống mặt hồ đang nổi sóng...

  Ðêm đã về khuya, những người trên Hoa Thuyền không rành bơi lội, ngậm ngùi nhìn theo dòng nước bao la cuốn sinh đi. Mạn thuyền bên này, Cấn thuyền trưởng cũng vừa lặn xuống hồ. Nhưng mênh mông hồ  nước bao la, sau  một thời gian khá lâu tìm kiếm không kết quả, Cấn thuyền trưởng đành phải lên thuyền.

  Vì câu chuyện bất ngờ trên, Hoa Thuyền tạm ngưng nhận khách trong một mùa trăng. Cũng thời gian đó, người của Ngọc gia trang vớt được thi thể sinh, đem an táng trên một gò đất ven hồ, giữa hai hàng liễu rủ. Bia mộ có ghi: - “Thường Nhơn Hòa tiên sinh chi mộ”.

  Ít lâu sau, trong vùng Lãng Hồ, canh khuya thường có một loài chim kêu lên mấy tiếng, nghe như 4 bốn chữ: “Tự phong siếu diện”, giọng chim ai oán, thê lương tựa lời oán than của một oan hồn chưa siêu thoát!

  Gần một năm sau, có vị tân khoa trẻ tuổi, Lại Thám Hoa, trên đường  hồi hương, dừng chân lại   Lãng Hồ. Thám Hoa hiếu kỳ trước câu chuyện kể của người địa phương, nên dấu danh phận, cùng hai người tùy tùng mướn con thuyền nhỏ, chiều hôm ấy áp mạn Hoa Thuyền. Chủ nhân Hoa Thuyền, Ngọc tiểu thư tuy chưa lựa chọn được người tri kỷ, nhưng cũng chưa đáo hạn lên Liên Hoa Bửu Tự yết kiến Ni sư trụ trì Thích Hằng Ðộ.

  Vừa cạn một tuần trà, Lại thám hoa đứng lên, trịnh trọng hướng về phía Ngọc tiểu thơ, minh bạch:

  - Ðược vinh dự đối diện Ngọc cô nương, kẻ đường đột này thiệt là vạn hạnh. Ðể đáp lại thịnh tình của cô nương, vãn sinh xin đem tấm lòng chân thành giãi tỏ, mong được cô nương thể tất. Vãn sinh quả không hề có cao vọng được lọt vào mắt xanh của cô nương. Chẳng qua nghe câu chuyện thương tâm của người đến trước, muốn được cô nương cho nghe vế ra ngày trước, đã khiến cho Thường huynh đệ  gửi nắm xương tàn tại vùng Lãng Hồ này. Vạn nhất mà vãn bối đáp ứng được, dù quá muộn màng, thay cho Thường huynh đệ, âu cũng là  có duyên với người quá vãng, lại như món quà văn chương kính tặng Ngọc Cô Nương. Vãn bối  quả không  còn cao vọng bào khác.  Dám mong  Ngọc  cô nương chiếu cố cho.

  Ngọc tiểu  thơ thở dài nhỏ nhẹ:

  - Xin mời Lại tiên sinh an toạ. Thưa  tiên sinh, tiểu nữ gần đây cảm thấy không còn nhiều hứng thú với chiếc Hoa thuyền này. Hình như tiểu nữ không có duyên với chuyện lứa đôi, chỉ mong đáo hạn đã đề ra cho mình, để thanh thản lên đường tu đạo. Nếu trước đây gặp tình huống này, ắt tiểu nữ đã phụ lòng tiên sinh mà chỉ khăng khăng tiến hành công việc trước mắt, chớ không thể nhắc lại chuyện đã qua. Nhưng hiện tại, tiểu nữ thấy không cần để tiên sinh phiền lòng. Trang giấy hoa tiên ghi vế ra ngày đó vẫn còn đây, kính mời tiên sinh chỉ giáo.

  Một thiếu nữ bưng chiếc khay trên có tờ hoa tiên với dòng chữ   Bản thủy vô ba, tự phong siếu diện; một cô khác bưng chiếc khay có bút, nghiên mài mực sẳn và một tờ hoa tiên để trắng. Cả hai đặt khay trên bàn, trước mặt khách.

  Lại thám hoa ngồi xuống ghế, ông nhìn qua  vế ra  một lát rồi phóng  bút.

  Tờ hoa tiên lập tức được một cô gái đặt trên một chiếc khay khác đem trình chủ nhân Hoa Thuyền.

  Ngọc cô nương đọc nhanh vế đối:

  - Nguyên sơn bất lão, vị tuyết bạch đầu.

  Vế đối  hàm nghĩa: Núi vốn không già, chỉ vì tuyết phủ nên làm  đầu bạc!

  Ðối chỉnh, lời hay, ý đẹp. Ngọc tiểu thư cảm thấy nóng bừng hai má. Nhưng từ khoảng không trên Hoa Thuyền, thốt nhiên có một tiếng chim quen thuộc vừa kêu lên bốn tiếng nghe như “Vị Tuyết Bạch Ðầu”, rồi mất hút trong đêm.

  Một thoáng qua, đã thấy Lại thám hoa bước qua con thuyến nhỏ, tiếng của ông vọng lại như từ một cõi xa xăm:

  - Ða tạ Ngọc tiểu thơ về buổi hội kiến này. Vãn sinh thành tâm kính chúc cô nương sẽ gặp được một kỳ duyên trong những ngày sắp tới. Xin tha lỗi cho vãn bối chẳng thể ngồi lâu. Giờ xin giã biệt!

  Tiếng nói chưa dứt mà con thuyền nhỏ đã lìa xa qua bờ phía tây của Lãng Hồ.

  Người kể lại câu chuyện trên đây là một lão tiền bối hiện đang sống trên bờ tây Thái Bình Dương. Không nghe ông nói gì về đoạn kết. Liệu Ngọc Tiểu Thơ có xuống tóc tu đạo hay không?  Ðoạn cuối câu chuyện của ông  chỉ  nói một câu:

  -”Từ đó trong vùng Lãng Hồ, người ta không còn nghe tiếng một loài chim ai oán kêu trong đêm, mấy tiếng nghe như ‘tự  phong siếu diện’ nữa”.

Hoàng Ngọc Liên
 

| Trang bìa |
| Ðầu trang |