Trang nhà
HOÀNG NGỌC LIÊN



hoangngoclien@juno.com

Thơ Hoàng Ngọc Liên

 Bài Hành Những Mùa Xuân Qua

Aát Dậu (1945) Xuân xơ xác ruộng đồng
Nạn đói bắt đầu ló dạng
Hết vừng, ngô, sắn, khoai, giong.
Chợ làng đâu còn gì  mua bán!
Ðọt bí, bầu, củ chuối cũng xong
Thoi thóp thân gầy thôn dân đói lả
Gục bên lề đường, nhiều xác trôi sông!
Tháng ba mây đen vần vũ
Vụ lúa chiêm không đủ lót lòng
Trai tráng trong làng tìm ra Kẻ Chợ
Ninh Bình, Nam Ðịnh, Phủ Lý, Hà Ðông
Nhiều người ra đi không  về nữa.

Hoà Hội Năm Tư (1954) chia đôi đất nước
Bờ Nam, bến Bắc đứt đoạn cho đành!
Người ra đi tìm tự do, no ấm

Tết năm Bính Thìn  (1976)  đầu đã bạc
Thân nặng nề trên những bước chân.
Kiếng mắt lại nhòa thêm nửa độ,
Làm thơ thiếu hứng chẳng ra vần.
Mà nghe nao nức mùa Xuân tới
Còn có gì đâu để đón Xuân
Thì cũng nhớ ta thêm một tuổi,
Là thêm cay đắng vị phong trần.
Nửa đêm thao thức không hương nến,
Khói thuốc mông lung ngỡ khói trầm.
Như thấy hiện trong màn ảo ảnh,
Bao nhiêu ngương mặt của người thân.
Nam nay Mẹ thắp hương thờ Tổ,
Rưng lệ thương con, Mẹ khóc thầm.
Lũ cháu nghẹn ngào không thấy bố
Về mừng tuổi nội buổi đầu năm.
Biết đâu bố vẫn còn thao thức,
Ðã trắng đêm rồi chẳng thấy Xuân.
Chỉ tiếng sương gieo từng hạt nặng,
Trên căn nhà trống lạnh căm căm.
Giang sơn còn đó ngoài khung cửa,
Chẳng đóa hoa nào nở trước sân.
Ánh sáng giáo đường  xa diệu vợi,
Mông lung hồn gửi tiếng chuông ngân,
Nương  theo cảnh sắc trong mơ ảo,
Một thoáng  phiêu du cõi mộng Xuân.
Về lại làng quê trên đất Bắc,
Chào đón giao thừa pháo nổ ran.
Rực sáng bàn thờ dâng của lễ,
Kính thờ Thượng Ðế, tưởng nhớ tiền nhân.
Năm Mới ơn Trời cho đoàn tụ,
Yêu thương làm sức mạnh tinh thần.
Khấn xin cho được nhiều ơn phước,
Với những niềm hy vọng chứa chan.
Mở toang cửa đón mừng Nguyên Ðán,
Khung trời tràn ngập một màu Xuân.
Cây nêu rủ xuống cung vôi trắng,
Mủi tên xua đuổi quỷ Sa Tan.
Rung rinh hội trống chèo thôn Bắc
Rộn rã hồi  chuông lễ xóm Nam.
Hương khói Chùa Trên "A Di Ðà Phật"
Nguyện cầu cho quốc thái, dân an.
Sực nghe tiếng kẻng năm giờ sáng,
Lại trở về đây, cảnh lạc đàn.
Gió sớm sương khuya còn thấm lạnh,
Len vào nỗi nhớ lạnh tâm can.
Trắng tay mộng vỡ đâu còn mộng,
Ðã hợp sao rồi lại cách ngăn?
Sông núi nào đây? Sông núi cũ,
Mà trong hội tụ có ly tan.
Ý thơ lạc lõng không còn ý,
Nhạc dạo cung thương lạc phím đàn.
Xúc cảm đâu đây nghe vọng lại,
Khúc buồn Dương Tử Long Giao Ngâm.
Bức tranh  vân cẩu ngày buông súng,
Hằn lại trong tim nỗi nhục nhằn.
Ðã không tự xử, không gan dạ
Làm Mạc Ly Châu, Nguyễn Khoa Nam...
Thì chấp nhận theo dòng lịch sử
Ðể xem bại, thắng cuộc cờ tàn.
Trả giá đương nhiên cho mệnh số,
Ðã đành khi nước mất, nhà tan.
Sau tháng Tư Ðen, vào thử thách
Giữa cuộc chơi này tạm ghé chân.
Chỉ mới bắt đầu, mùi tục lụy
Nào đâu vị đắng, nỗi gian truân.
Cung đàn Thục Vũ quên cay đắng,
Thấm thía lời thơ Hà Thượng Nhân.
Trót đa mang chút tình văn nghệ
Xin gọi là... khúc mưỡu đầu năm:
Long Giao - Suối Máu
Tiếng sáo, đàn ai tấu nhạc vào thơ.
Hà chưởng môn gieo vận  "Ly Cơ
Khúc thi nhạc giao hòa duyên ThụcVũ
Trong ý nhạc, lời thơ tâm sự,
Ðường thế trần cho nếm đủ chua cay.
Khói thuốc, hương trà như ướp men say,
Thì cứ sống những ngày diễm ý.
Câu tri túc cảm thông tình tri kỷ,
Mải  mê thơ, thú vị một cung đàn
Quên chuyện bên ngoài, hội tụ với ly tan!

T ừ bữa chen chân vào hỏa ngục,
Mới đó, đây mà đã hai năm.
Con tàu chạy ngược về phương Bắc,
Bỏ lại sau lưng những lỗi lầm.
Trong những nguyên do làm mất nước,
Ắt  hẳn là ta đã góp phần.
Giữa năm Bảy Sáu qua quê cũ,
Ðến tận Sơn La, đồi hoa Ban.
Lòng đất gửi thịt xương Thục Vũ,
Nóng cháy da và lạnh thấu gan.
Ðói cơm, thiếu thuốc bao nhiêu kẻ
Chưa muốn ra đi cũng thát trần.
Những giọt máu tù rơi thánh thót,
Với mồ hôi  chảy quyện bàn chân
Rừng trải triền cao, mây vướng núi,
Suối trắng đèo tranh, nước đổ ngàn.
Bóng tù thấp thoáng màn tre nứa,
Ðem niềm tin chống trả thời gian.
Gai góc, rắn, sâu, bò cạp, vắt,
Ðủ cho gia vị đọa đầy thân.
Nhưng vẫn sáng ngời lên ánh mắt,
Vẫn tự hào chánh đạo, nghĩa, nhân.

Bảy Tám  chuyển đời qua Yên Hạ,
Bắt đầu trả món nợ  công an.
Mới hay trong đám người thua trận,
Khá nhiều đồng tuyến chẳng đồng tâm.
Nỗi đau của kẻ vừa buông súng.
Chưa thấy mờ đi những vết hằn.
Ðã thấy bạn tù vừa trở mặt,
Cúi đầu theo đóm để ăn tàn.
Lúc vừa nghe mất Lê Văn Thuận,
Phạm Văn Sơn và Nguyễn Văn Năm.
Cũng vào giữa năm Bảy Mươi Chín,
Nguyễn Mạnh Côn mất ở trong Nam.

Tám Mươi lại chuyển đi Thanh Hóa,
Ðến trại Thanh Phong, huyện Như Xuân.
Ðất Lào vừa vặn đường dao ném,
Rừng Lim hun hút, đất khô cằn.
"Cách Mạng" đốt rừng làm phân bón,
Nước nguồn đổ xuống đầu tháng năm.
Lụt cuốn gọn đi bao "thu hoạch",
Trôi phăng mất tích Cao Quản Chơn!
Lũ trẻ trại bên tù hình sự,
Mấy ngày đêm không có gì ăn!
Chỉ thấy  toàn xương da xám ngắt,
Chỉ thấy đầu dính với tay chân!
Thanh Phong, ướp gió Lào nung nấu,
Lại gặp anh em Biệt Kích Quân.
Từ buổi chia tay rời đơn vị,
Thế mà đã sắp hai mươi năm!
Ðâu phải ra đi là vĩnh biệt,
Nắm chặt bàn tay, trao đổi  ân cần.
Cuối năm nghe nỗi nhà tang tóc,
Ðau lòng vĩnh biệt những người thân:
Mẹ đã lên trời không gặp mặt,
Vợ vừa về đất chẳng đưa chân.
Con trai câm điếc từ thơ ấu,
Cũng vội đi giữa tuổi thanh xuân.
Bức thư báo tử 3 nngười mất,
Ðến trại tù vừa đúng nửa năm!

Tám Hai di chuyển ra Thanh Hóa,
Xe lửa Thống Nhất  trả về Nam.
Buổi sáng đợi tránh tàu  ga Huế,
Có em bé gái tuổi mười lăm.
Quẳng vội lên toa vài gói thuốc
Túi vải thô đầy những đồ ăn.
Rồi chạy vội đi, không kịp nói,
Bên đường thấp thoáng bóng công an.
Nước mắt lưng tròng, người bạn già tức tưởi,
Không khóc đời tù mà khóc mối tình thâm!
Chập tối hôm sau qua Ðà Nẵng,
Ðuốc sáng trải dài tới Hội An.
Một thanh niên quơ lửa lên, mừng tủi:
- Các bác về Nam! Các bác về Nam!
Và: "Các bác ráng giữ gìn sức khoẻ!"
" Cho gửi Sài Gòn lời thăm! Lời thăm!"
Lại có tiếng gào theo gió cuốn,
Mấy cô thôn nữ ga Tua Chàm:  (1)
-" Các bác sống rồi, xin hãy đợi,
Có một ngày, chúng cháu sẽ vô thăm!"
Hai chín tháng tư ra Thuận Hải,
Ở khu nhà "Ðỏ" trại Hàm Tân.
Tại đây gặp Lê Huy Linh Vũ,
Anh Hoa, Tô Thùy Yên,  Ðặng Trần Huân....
Tháng tám Tám Tư vừa vĩnh biệt
Người bạn ngày xưa: Ðoàn Bội Trân!

Tám Lăm chuyển trại qua Thủ Ðức (2)
Ở tù thấm thoát  mà... mười năm!
Món nợ không vay mà phải trả,
Xem chừng chưa xứng đáng đồng cân.
Nghĩa trang tù  thêm nhiều mộ mới,
"Nợ máu" đòi thêm kẻ trả dần.

Tám Tám có trong tay tấm Giấy
Ra Trại  rồi, từ giã Hàm Tân!
Nhớ Bạn Tù, bao nhiêu người nằm xuống,
Nợ Núi Sông đem trả xác thân.
Nhớ Bạn Tù, bao nhiêu người ở lại,
Tiếp tục khổ sai sau mười ba năm.
Nhớ bạn tù, bao nhiêu người tàn phế,
Bị bạo hành trong Ngục Ðỏ trần gian.
Chuyến xe hàng chạy về thành phố cũ,
Không lấy tiền người thất thế, sa chân.
Sao những nẻo đường xưa  xa lạ quá
Sông núi còn, nước mất, ôi Việt Nam!
Xe đến Sài Gòn, như một thành phố khác,
Ôi ba mươi tháng tư năm Bảy Mươi Lăm!

1976-1988

(1) Ga Tour Cham. (Phan Rang)
(2) Tức trại  Z30D thuộc tỉnh  Phan Thiết.

| Trang bìa |
| Ðầu trang |